Thứ Tư, 12 tháng 11, 2025

MỘT MÌNH MỘT TÁCH VÔ THƯỜNG MÀ SAY*

(Đọc “Từ Tình Giang tôi lớn” của Lê Bá Duy)

 

Trong tâm thức của người Việt, quê hương là một biểu tượng thiêng liêng, nó được tái hiện trong thơ ca phong phú và đa dạng làm nên những bài thơ đa sắc điệu, đậm chất trữ tình. Đọc TỪ TÌNH GIANG TÔI LỚN của Lê Bá Duy, người đọc không gặp những hình ảnh ước lệ khi nói về quê hương với cây đa, bến nước, sân đình… mà gặp những hình ảnh rất thật về cái làng Tình Giang bé nhỏ của mình. Đây là tập thơ thứ 11 và là tập sách thứ 12 của anh do nxb Hội Nhà văn cấp phép năm 2025. Xuyên suốt tập thơ là những hoài niệm từ thực tế mà anh chiêm nghiệm: “Từ Tình Giang tôi lớn/ từ nỗi đau ông cha tôi ngẫm điều mất mát/ cuộc sống dẫu thế nào vẫn cứ hát/ bài hát yêu thương…” (Từ Tình Giang tôi lớn – trang 13). Và tôi đang lần giở từng trang sách để nghe anh hát “bài hát yêu thương” về làng Tình Giang của anh.

 



Có thể tôi đọc chưa nhiều nên không biết có tập thơ cá nhân nào mà hầu hết 70 bài đều viết về cái làng nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên như Lê Bá Duy hay không. Mà trong đó mỗi địa danh như một nốt nhạc trong bản nhạc tự hào về làng quê:

“Em về quê nhé, cùng anh

sông Tình tháp Bạc đồng xanh gò Vàng

quê mình tên gọi Tình Giang

Tình Giang Nam – Bắc đều làng chúng ta.”

(Em về quê nhé, cùng anh – trang 56)

 

Nhà thơ đã nặng nợ ân tình với Tình Giang, nơi nuôi dưỡng tâm hồn và thể xác của anh, nuôi dưỡng những ước mơ của anh; nơi anh từ đó ra đi và chắc hẳn sẽ lại về nơi đó: “Dòng sông Tình và đất núi Tình/ đã nuôi anh chị em chúng tôi khôn lớn/ cánh đồng Tình Giang, những người làng Tình/ và những con đường làng nuôi dưỡng tâm hồn tôi//… Cứ thế mà lớn lên/ chúng tôi đi qua những miền đất lạ/ rồi trở về với cội nguồn nơi mình đã sinh ra.” (Từ dòng sông Tình – trang 82, 83). Cho nên:

“Bây giờ lại nhớ làng thôi

bây giờ ngày tháng xa xôi lại về

nhớ làng tim thắt tái tê

ngước lên đỉnh núi tìm về ấu thơ.”

(Nhớ làng – trang 7)

 

Sống ở làng lại nhớ da diết về làng thì chắc chắn là nhớ đến những kỷ niệm, những hình ảnh thân quen đã xa khuất trong quá khứ. Đó là hình ảnh quê nhà vẫn còn giữ những tập tục đẹp cho mỗi gia đình đoàn viên, thương yêu, hòa thuận, gắn kết bằng những ngày cả tộc họ tảo mộ. Tảo mộ là làm mới, sửa sang lại ngôi nhà cho người thân đã khuất; để con chảu nhận biết về nguồn cội của mình và còn tin tưởng về một điều linh thiêng về âm đức của tổ tiên dành trao cho con cháu:

“Dưới chân núi Tình Giang đang biếc

những ngôi nhà ngui ngút khói hương

người tảo mộ khấn người dưới mộ

linh thiêng…”

(Tháng Chạp – trang 18)

 

Nhà thơ nói về mình, về mẹ rồi bất chợt nói đến cả kiếp nhân sinh. Cái tình mẹ con đáng trân trọng bao nhiêu thì cái tình cảm thán với “kiếp người” của tha nhân thật càng lớn lao biết bao nhiêu: “Lên thăm mộ mẹ thắp hương/ trông lên đỉnh núi mà thương kiếp người.” (Thăm mẹ - trang 36). Tôi vẫn thấy nhà thơ “thương kiếp người” không cụ thể nên tôi thích thú với cách viết cụ thể mà đầy ắp yêu thương này:

“Tôi yêu trường yêu các em thơ

mới thoáng đó bốn bảy năm chớp mắt

cậu bé đã ông giáo già tóc bạc

ủ trong lòng ngôi trường cũ yêu thương.”

(Ngôi trường tôi yêu – trang 65)

 

Và tôi lặng người khi đọc những câu thơ tác giả viết về những con người thật từng sinh sống ở Tình Giang; rồi lại lặng lẽ trở về với đất Tình Giang nhẹ như cơn gió thoảng: “Mấy mươi năm từ xanh tóc đến bạc đầu/ bao thế hệ lớn lên rồi về làng tan trong đất/ tôi đứng lặng trong trầm tư được mất/ nghĩ kiếp người như vừa mới hôm qua…” (Tình Giang – trang 39). Phải là người thấu suốt lẽ tử sinh mới an nhiên sống và chết một cách hồn nhiên: “Sống là tất bật với đời/ thác là yên nghỉ chỉ cười với mây/ sống là mơ ước đủ đầy/ thác là tro bón cỏ cây cõi người.” (Tiễn một người – trang 88). Nhưng thời gian vẫn lao về phía trước và cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn. Sự chia ly sẽ dần vào dĩ vãng:

“Ơi sông Tình duềnh lên bao kỷ niệm

đêm cụng ly chếnh choáng

ai năm ấy đã đi vào dĩ vãng

nghe tận cùng sâu thẳm nỗi chia ly”

(Ơi sông Tình đêm nay – trang 53)

 

Tôi cùng nhà thơ Lê Bá Duy tin một Tình Giang: “nghìn năm cho dù dâu bể/ Tình Giang vẫn mãi trường tồn/ phố phường trẻ trên làng xưa nguồn cội/ trăng dịu dàng tỏa sáng quê hương…” (Giấc mơ nước mắt núi Tình – trang 72). Mà không tin sao được khi Tình Giang có một quá khứ kiên cường trong đấu tranh; con người trung hậu hết lòng vì đất nước. Tôi cũng không biết ở nơi nào trên đất nước ta như trong một nhà thờ họ Lê ở làng Luật Chánh (Phước Hiệp, Tuy Phước, Bình Định) cùng thờ hai chú cháu phụng sự cho hai triều đại đối nghịch nhau. Đó là Thượng thư bộ Hình triều Tây Sơn Lê Công Miễn (1739-1800) và cháu là Thượng thư bộ Binh, tổng đốc triều Nguyễn Lê Đại Cang (1771-1847). Chính điều này đã làm cho nhà thơ Lê Bá Duy hết sức xúc động và tự hào:

“Năm tháng trôi qua

hai danh nhân họ Lê

tuy phụng sự hai triều đại khác nhau

nhưng để lại một sự nghiệp

sống mãi trong tâm thức bao người”

(Trong từ đường họ Lê ở Luật Chánh – trang 19)

 

Một dòng họ là vậy, còn trong làng Tình Giang thì:

“Làng tôi

nơi hội tụ thi nhân

rạng thơm xứ sở

vui đón bè bạn mọi miền

về với Tình Giang…”

(Tình Giang: Nơi hội tụ thi nhân – trang 24)

 

Đúng là vùng đất địa linh nhân kiệt. Cho nên:

“Tôi đi qua những triền miên

nhận ra vẻ đẹp thâm nghiêm của làng”

(Làng tôi – trang 11)

 

Tự hào về làng, về con người ở Tình Giang; Lê Bá Duy thấy mình như chưa làm được gì cho quê, cho dòng họ, cho cuộc đời. Đó là tâm trạng của người có trách nhiệm với xã hội; với cuộc sống, con người. Nỗi nhớ quê của người đang sống giữa lòng quê hương nó thao thiết, dằn vặt buồn thương biết bao!

“Giờ vui buồn với cơn mưa

Tôi người ở trọ có thừa với quê?

Đêm đêm thao thức tìm về

Chiêm bao tôi đắm sông thề hẹn em…”

(Nhớ quê – trang 21)

 

Nhà thơ nói về chuyện “mẹ bận chưa về kịp, cha nằm võng đợi, đàn con bay đi khắp núi nằm đơn chiếc” như những phiên cảnh cắt lát sự sinh hoạt thường ngày của cuộc sống. Nhưng những phận người, phận đời, tâm trạng của một thời đại hiện lên rõ mồn một khiến người đọc không khỏi chạnh lòng:

“tháng ba mẹ bận chưa về kịp

cha nằm võng đợi úa trung niên

đàn con khôn lớn bay đi khắp

núi nằm đơn chiếc ước đoàn viên”

(Tựa giấc chiêm bao – trang 15)

 

Sẽ không nói điều này về tập thơ TỪ TÌNH GIANG TÔI LỚN là một sự thiếu sót lớn khi nói về tình cảm của nhà thơ Lê Bá Duy dành cho quê nhà của mình. Đó là trong 70 bài thơ trong tập đã hơn chục đề bài nhắc trực tiếp đến làng Tình, núi Tình, sông Tình và hơn chục đề bài khác liên quan đến Tình Giang. Những cái tên: “Từ Tình Giang tôi lớn, Trở về Tình Giang, Viết ở núi Tình Giang, Ơi sông Tình Đêm nay, Tình Giang: Nơi hội tụ thi nhân… đến Nhớ làng, Cội nguồn sinh dưỡng làng tôi, Nhớ quê, Tảo mộ cuối năm…”, người viết không yêu lắm làng mình thì những thi ảnh sẽ lặp lại một cách nhàm chán. Tác giả không trau chuốt, đánh bóng hiện thực mà để tự nó lên tiếng nói đúng nghĩa về sự sống, về con người như tự vốn có như có lần tác giả viết:

“trăm năm hòa sương khói

Quẩn quanh nơi sinh ra

Sống đơm hoa kết trái

Gắng một đời thăng hoa”

(Hạt bụi làng Tình – trang 103)

 

Chính tình cảm chân thật của nhà thơ Lê Bá Duy về mảnh đất nơi mình sinh ra đã khơi gợi tình cảm yêu mến của người đọc về con người Tình Giang vừa kiên cường trong đấu tranh, vừa cần cù trong lao động mà không thiếu sự đằm thắm nặng ân tình trong cuộc sống. Cảm ơn nhà thơ với tập thơ “Từ Tình Giang tôi lớn” đầy ắp những cung bậc tình cảm mà người con gởi đến quê nhà.

Ngô Văn Cư

 

*Câu thơ của LBD

 

Không có nhận xét nào: