(Đọc
“Từ Tình Giang tôi lớn” của Lê Bá Duy)
Trong tâm thức
của người Việt, quê hương là một biểu tượng thiêng liêng, nó được tái hiện
trong thơ ca phong phú và đa dạng làm nên những bài thơ đa sắc điệu, đậm chất
trữ tình. Đọc TỪ TÌNH GIANG TÔI LỚN của Lê Bá Duy, người đọc không gặp những
hình ảnh ước lệ khi nói về quê hương với cây đa, bến nước, sân đình… mà gặp những
hình ảnh rất thật về cái làng Tình Giang bé nhỏ của mình. Đây là tập thơ thứ 11
và là tập sách thứ 12 của anh do nxb Hội Nhà văn cấp phép năm 2025. Xuyên suốt
tập thơ là những hoài niệm từ thực tế mà anh chiêm nghiệm: “Từ Tình Giang
tôi lớn/ từ nỗi đau ông cha tôi ngẫm điều mất mát/ cuộc sống dẫu thế nào vẫn cứ
hát/ bài hát yêu thương…” (Từ Tình Giang tôi lớn – trang 13). Và tôi đang lần
giở từng trang sách để nghe anh hát “bài hát yêu thương” về làng Tình
Giang của anh.
Có thể tôi đọc
chưa nhiều nên không biết có tập thơ cá nhân nào mà hầu hết 70 bài đều viết về
cái làng nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên như Lê Bá Duy hay không. Mà trong đó mỗi
địa danh như một nốt nhạc trong bản nhạc tự hào về làng quê:
“Em về
quê nhé, cùng anh
sông Tình
tháp Bạc đồng xanh gò Vàng
quê mình
tên gọi Tình Giang
Tình
Giang Nam – Bắc đều làng chúng ta.”
(Em về quê
nhé, cùng anh – trang 56)
Nhà thơ đã nặng
nợ ân tình với Tình Giang, nơi nuôi dưỡng tâm hồn và thể xác của anh, nuôi dưỡng
những ước mơ của anh; nơi anh từ đó ra đi và chắc hẳn sẽ lại về nơi đó: “Dòng
sông Tình và đất núi Tình/ đã nuôi anh chị em chúng tôi khôn lớn/ cánh
đồng Tình Giang, những người làng Tình/ và những con đường làng nuôi dưỡng
tâm hồn tôi//… Cứ thế mà lớn lên/ chúng tôi đi qua những miền đất lạ/
rồi trở về với cội nguồn nơi mình đã sinh ra.” (Từ dòng sông Tình –
trang 82, 83). Cho nên:
“Bây giờ
lại nhớ làng thôi
bây giờ
ngày tháng xa xôi lại về
nhớ làng
tim thắt tái tê
ngước
lên đỉnh núi tìm về ấu thơ.”
(Nhớ làng –
trang 7)
Sống ở làng
lại nhớ da diết về làng thì chắc chắn là nhớ đến những kỷ niệm, những hình ảnh
thân quen đã xa khuất trong quá khứ. Đó là hình ảnh quê nhà vẫn còn giữ những tập
tục đẹp cho mỗi gia đình đoàn viên, thương yêu, hòa thuận, gắn kết bằng những
ngày cả tộc họ tảo mộ. Tảo mộ là làm mới, sửa sang lại ngôi nhà cho người thân
đã khuất; để con chảu nhận biết về nguồn cội của mình và còn tin tưởng về một
điều linh thiêng về âm đức của tổ tiên dành trao cho con cháu:
“Dưới
chân núi Tình Giang đang biếc
những
ngôi nhà ngui ngút khói hương
người tảo
mộ khấn người dưới mộ
linh
thiêng…”
(Tháng Chạp
– trang 18)
Nhà thơ nói
về mình, về mẹ rồi bất chợt nói đến cả kiếp nhân sinh. Cái tình mẹ con đáng
trân trọng bao nhiêu thì cái tình cảm thán với “kiếp người” của tha nhân
thật càng lớn lao biết bao nhiêu: “Lên thăm mộ mẹ thắp hương/ trông
lên đỉnh núi mà thương kiếp người.” (Thăm mẹ - trang 36). Tôi vẫn thấy nhà
thơ “thương kiếp người” không cụ thể nên tôi thích thú với cách viết cụ
thể mà đầy ắp yêu thương này:
“Tôi yêu
trường yêu các em thơ
mới
thoáng đó bốn bảy năm chớp mắt
cậu bé
đã ông giáo già tóc bạc
ủ trong
lòng ngôi trường cũ yêu thương.”
(Ngôi trường
tôi yêu – trang 65)
Và tôi lặng
người khi đọc những câu thơ tác giả viết về những con người thật từng sinh sống
ở Tình Giang; rồi lại lặng lẽ trở về với đất Tình Giang nhẹ như cơn gió thoảng:
“Mấy mươi năm từ xanh tóc đến bạc đầu/ bao thế hệ lớn lên rồi về làng
tan trong đất/ tôi đứng lặng trong trầm tư được mất/ nghĩ kiếp
người như vừa mới hôm qua…” (Tình Giang – trang 39). Phải là người thấu suốt
lẽ tử sinh mới an nhiên sống và chết một cách hồn nhiên: “Sống là tất bật với
đời/ thác là yên nghỉ chỉ cười với mây/ sống là mơ ước đủ đầy/
thác là tro bón cỏ cây cõi người.” (Tiễn một người – trang 88). Nhưng thời
gian vẫn lao về phía trước và cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn. Sự chia ly sẽ dần vào
dĩ vãng:
“Ơi sông
Tình duềnh lên bao kỷ niệm
đêm cụng
ly chếnh choáng
ai năm ấy
đã đi vào dĩ vãng
nghe tận
cùng sâu thẳm nỗi chia ly”
(Ơi sông
Tình đêm nay – trang 53)
Tôi cùng
nhà thơ Lê Bá Duy tin một Tình Giang: “nghìn năm cho dù dâu bể/ Tình Giang vẫn
mãi trường tồn/ phố phường trẻ trên làng xưa nguồn cội/ trăng dịu dàng tỏa sáng
quê hương…” (Giấc mơ nước mắt núi Tình – trang 72). Mà không tin sao được
khi Tình Giang có một quá khứ kiên cường trong đấu tranh; con người trung hậu hết
lòng vì đất nước. Tôi cũng không biết ở nơi nào trên đất nước ta như trong một
nhà thờ họ Lê ở làng Luật Chánh (Phước Hiệp, Tuy Phước, Bình Định) cùng thờ hai
chú cháu phụng sự cho hai triều đại đối nghịch nhau. Đó là Thượng thư bộ Hình
triều Tây Sơn Lê Công Miễn (1739-1800) và cháu là Thượng thư bộ Binh, tổng đốc
triều Nguyễn Lê Đại Cang (1771-1847). Chính điều này đã làm cho nhà thơ Lê Bá
Duy hết sức xúc động và tự hào:
“Năm
tháng trôi qua
hai danh
nhân họ Lê
tuy phụng
sự hai triều đại khác nhau
nhưng để
lại một sự nghiệp
sống mãi
trong tâm thức bao người”
(Trong từ
đường họ Lê ở Luật Chánh – trang 19)
Một dòng họ
là vậy, còn trong làng Tình Giang thì:
“Làng
tôi
nơi hội
tụ thi nhân
rạng
thơm xứ sở
vui đón
bè bạn mọi miền
về với
Tình Giang…”
(Tình
Giang: Nơi hội tụ thi nhân – trang 24)
Đúng là
vùng đất địa linh nhân kiệt. Cho nên:
“Tôi đi
qua những triền miên
nhận ra
vẻ đẹp thâm nghiêm của làng”
(Làng tôi –
trang 11)
Tự hào về
làng, về con người ở Tình Giang; Lê Bá Duy thấy mình như chưa làm được gì cho
quê, cho dòng họ, cho cuộc đời. Đó là tâm trạng của người có trách nhiệm với xã
hội; với cuộc sống, con người. Nỗi nhớ quê của người đang sống giữa lòng quê
hương nó thao thiết, dằn vặt buồn thương biết bao!
“Giờ vui buồn với cơn mưa
Tôi người ở trọ có thừa với quê?
Đêm đêm thao thức tìm về
Chiêm bao tôi đắm sông thề hẹn em…”
(Nhớ quê – trang 21)
Nhà thơ nói về chuyện “mẹ bận chưa về kịp, cha nằm võng đợi, đàn con
bay đi khắp và núi nằm đơn chiếc” như những phiên cảnh cắt lát sự
sinh hoạt thường ngày của cuộc sống. Nhưng những phận người, phận đời, tâm trạng
của một thời đại hiện lên rõ mồn một khiến người đọc không khỏi chạnh lòng:
“tháng
ba mẹ bận chưa về kịp
cha nằm
võng đợi úa trung niên
đàn con
khôn lớn bay đi khắp
núi nằm
đơn chiếc ước đoàn viên”
(Tựa giấc
chiêm bao – trang 15)
Sẽ không
nói điều này về tập thơ TỪ TÌNH GIANG TÔI LỚN là một sự thiếu sót lớn khi nói về
tình cảm của nhà thơ Lê Bá Duy dành cho quê nhà của mình. Đó là trong 70 bài
thơ trong tập đã hơn chục đề bài nhắc trực tiếp đến làng Tình, núi Tình, sông
Tình và hơn chục đề bài khác liên quan đến Tình Giang. Những cái tên: “Từ
Tình Giang tôi lớn, Trở về Tình Giang, Viết ở núi Tình Giang, Ơi sông Tình Đêm
nay, Tình Giang: Nơi hội tụ thi nhân… đến Nhớ làng, Cội nguồn sinh dưỡng
làng tôi, Nhớ quê, Tảo mộ cuối năm…”, người viết không yêu lắm làng mình
thì những thi ảnh sẽ lặp lại một cách nhàm chán. Tác giả không trau chuốt, đánh
bóng hiện thực mà để tự nó lên tiếng nói đúng nghĩa về sự sống, về con người
như tự vốn có như có lần tác giả viết:
“trăm
năm hòa sương khói
Quẩn
quanh nơi sinh ra
Sống đơm
hoa kết trái
Gắng một
đời thăng hoa”
(Hạt bụi
làng Tình – trang 103)
Chính tình
cảm chân thật của nhà thơ Lê Bá Duy về mảnh đất nơi mình sinh ra đã khơi gợi
tình cảm yêu mến của người đọc về con người Tình Giang vừa kiên cường trong đấu
tranh, vừa cần cù trong lao động mà không thiếu sự đằm thắm nặng ân tình trong
cuộc sống. Cảm ơn nhà thơ với tập thơ “Từ Tình Giang tôi lớn” đầy ắp những
cung bậc tình cảm mà người con gởi đến quê nhà.
Ngô Văn Cư
*Câu thơ của
LBD

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét