TRÒ CHUYỆN VỚI THÚY KIỀU bài thơ hay nhất của Lý Phương Liên

TRÒ CHUYỆN VỚI THÚY KIỀU
bài thơ hay nhất của Lý Phương Liên

Nhà văn Triệu Xuân
Khoảng sau Tết Nguyên đán 1970, thơ Lý Phương Liên xuất hiện trên báo ở miền Bắc và tức khắc thu hút sự chú ý của dư luận văn học. Người ta nói nhiều, ca ngợi nhiều về chị bởi trước hết thơ chị mới lạ, hay. Chị mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cha chị là công nhân, làm ở nhà máy điện Bờ Hồ, ông mất vì bệnh. Mẹ chị chết trong một trận bom khi đang trên đò qua sông Hồng. Chị học hết lớp 8 (hệ phổ thông 10 năm) phải bỏ học đi làm công nhân, kế nghiệp cha, để nuôi các em. Thưở ấy, là công nhân mà lại biết làm thơ, thơ lại hay thì được ca ngợi tót vời. Tôi nhớ mãi ấn tượng đầy khâm phục của sinh viên chúng tôi khi đang học năm thứ hai Khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội- được đọc nguyên một trang thơ Lý Phương Liên, in trên báo Nhân dân, ngày 20-8-1970, và nhiều tờ báo khác. Thời ấy, văn, thơ mà được in trên Nhân dân là khủng khiếp lắm! Lý Phương Liên trở thành sự kiện trong làng thơ: Nổi tiếng ngay từ những bài thơ đầu. Hồn thơ Lý Phương Liên trong trẻo, hồn nhiên, lối thể hiện mang âm hưởng thơ ca dân gian, truyền thống nhưng khá hiện đại và rất thực. Em mơ có một phiên tòa, Ca bình minh, Chim bằng… là tấm lòng của một thiếu nữ giữa thời đạn bom khói lửa vẫn tràn đầy lòng nhân ái, cháy bỏng tình yêu và dồi dào nghị lực. Bài Chim bằng là chỉ dấu sáng chói của một tâm hồn thơ yêu tự do, khát khao tự do, dám phủ nhận những lồng son tù túng, đồng thời cũng chứng tỏ lối thơ cách tân khá sớm của tác giả. Thế rồi bài thơ dài: Trò chuyện với Thúy Kiều (Nghĩ về Thúy Kiều) được in trên báo Văn nghệ. Ngay lập tức, chị bị phê phán. Thậm chí, có kẻ cho rằng Trò chuyện với Thúy Kiều là của một tên Nhân văn Giai phẩm đã đưa thơ của hắn cho chị in dưới danh chị để… Thế là “xong phim”! 

Tài thơ của Lý Phương Liên đã không gặp may. Nhân duyên của chị chỉ đến thế là hết ư? Rất nhiều người xót xa, tiếc thay cho chị, tiếc cho nền văn học nước nhà. Tài năng mà không gặp môi trường lành, thủy thổ lành thì làm sao đơm hoa kết trái!
Tôi cho rằng Trò chuyện với Thúy Kiều là một trong những bài thơ hay nhất của cuộc đời thơ lý Phương Liên, nó là đỉnh của chị. Bài thơ dài xuất hiện trên Văn nghệ, lập tức gây dư luận khen chê sôi nổi. Bài khen thì không thấy báo nào đăng, chỉ toàn những lời chê. Đất nước đang dốc toàn lực cho cuộc chiến tranh: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 không thu được kết quả như mong muốn duy ý chí ban đầu, nay đang tổ chức đợt hai. Chiến dịch thứ hai này càng tổn thất nặng nề hơn. Miền Bắc, hơn lúc nào hết, càng phải: “Tất cả cho tiền tiến, tất cả cho chiến thắng” … “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn”! Văn học nghệ thuật, trong đó có thơ, cũng phải là một mặt trận, là người lính xung kích để giành chiến thắng, giành độc lập tự do. Thế mà Lý Phương Liên lại đau đáu tư duy về thân phận nàng Kiều, lại trắc ẩn với hàng vạn nàng Kiều hiện đại, không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn cõi nhân gian. Lý Phương Liên viết: Trái đất chúng mình cho đến hôm nay/ Vẫn còn những cuộc đời như nàng chìm nổi/ Thời gian còn nửa ngày là đêm tối/ Còn đồng tiền đổi trắng thay đen/ Còn sắc tài bạc mệnh với hờn ghen/ Còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến/ Còn những đất đai triền miên chinh chiến/ Thúy Kiều ơi, nàng sống tháng năm dài… Chỉ riêng với đoạn thơ vừa dẫn, Lý Phương liên đã đủ bị phê bình kịch liệt, nếu không muốn nói đến những kiểu cách ứng xử tinh vi… bất thành văn thời đó! Chủ nghĩa cộng sản là mùa Xuân của nhân loại! Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã được xây dựng, cho đến khi bài thơ này được viết, là hơn 15 năm. Thế mà Lý Phương Liên dám hạ bút kêu than cho số phận người phụ nữ hiện đại, dám viết rằng thời của chị vẫn còn rất nhiều nàng Kiều, vẫn còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến, đồng tiền vẫn đổi trắng thay đen tác yêu tác quái! Bị oánh là phải!
Nguyễn Du vĩ đại ở chỗ: ngay từ đầu thế kỷ 19, ông đã có tác phẩm tuyệt hay viết về thân phận người đàn bà của chung toàn nhân loại. Lý Phương Liên đồng cảm một cách sâu sắc với nàng Kiều, tức là với thi hào Nguyễn Du, đã cất lên tiếng kêu xé lòng của những nàng Kiều hiện đại, ở một khía cạnh khác của thân phận, một góc khác của niềm khát khao về lòng nhân và hạnh phúc, một nẻo khác hướng về tương lai...
Đặc biệt cô gái trẻ 23 tuổi (ta) đã hồn nhiên viết ra những dòng thơ sâu sắc về tư duy, lấp lánh tư tưởng nhân bản về định mệnh, về nghị lực mà người phụ nữ quyết vượt lên số phận của con người. Những người phụ nữ Việt Nam thời ấy đã làm được như rứa:

Sông Hồng đó, nọ Hồ Tây
Chết trong nước cuốn có ngày nổi lên
Kiểu gì chết cũng thấp hèn
Kiểu gì chết cũng làm hoen ố đời
Trên chết chóc muốn dập vùi
Trên đau thương mới là người, người ơi…
Quyết không chịu chết, không đầu hàng số phận, không chào thua định mệnh. Tuổi hai mươi không tin vào định mệnh/ Định mệnh là đối thủ tiến công. Lý Phương Liên đã làm được như lời mẹ dặn, chị đã hãnh diện ca ngợi người phụ nữ trong bài thơ này: Không có con đường nào toàn bóng mát và hoa/ Không có vùng trời nào toàn chim hót/ Không có cây khế vàng trong cổ tích/ Kho báu cũng không, dù có mật khẩu vừng…/ Em đón nhận đời em sau một thoáng hãi hùng/ Chôn mẹ, nuôi đàn em thơ dại/ An phận ư? Mơ hồ sợ hãi/ Sống vẫn là lời mẹ dặn thiêng liêng…
Phải sống! Đơn giản là chết thì chết kiểu gì cũng là hết, là hèn. Phải sống! Bởi thế cả dân tộc Việt Nam đã vùng đứng lên: Những ngày sáu chín, bẩy mươi/ Chẳng có nơi đâu hơn tuyệt diệu con người/ Vai gánh nặng cuộc chiến tranh hủy diệt/ Mỗi người dân đều nhận phần mất mát/ Chia đều nhau bom đạn với cơm ăn.
Thơ hay rứa, thật rứa, tự hào rứa mà bị đánh! Tệ hết sức! Người ta bảo Lý Phương Liên gieo mầm bi quan yếm thế, làm nản chí lòng người trai trẻ đang ra trận! Thật là ác tâm ác khẩu. Hãy đọc những dòng thơ: Tôi cứ đi chuyên cần bền bỉ/ Trông xa về phía trời hồng/ Thúy Kiều ơi, như người sang sông/ Tôi đưa đò cập bến (…)/ Đất nước chiến tranh nhân dân còn cơ cực/ Khi cái chết vãi từ trên phản lực/ Bom chùm, bom lửa, bom bi… Đời còn nhiều gian khó phải qua… / Thấy hết gian truân để mà cười, mà sống… Đường ra biển có thể dài năm tháng/ Mất mát nhiều hơn, gian khổ cũng nhiều hơn/ Nhưng một điều chắc chắn phi thường/ Chúng tôi sẽ lên bờ vào một ngày nắng đẹp
Trong bản in đầu, như tôi nhớ, còn có hai câu:
Tuổi hai mươi không tin vào định mệnh
Định mệnh là đối thủ tiến công.
Hai câu ấy sau này không còn nữa, nó có vẻ trực cảm, trực nghĩa quá. Bài thơ của chị là ánh phản tâm hồn đa cảm nhưng khỏe khoắn, đầy lòng yêu cuộc sống, giàu nghị lực.
Lý Phương Liên làm thơ vào thời của những khẩu hiệu, những phong trào, những hành khúc, chỉ được nói đến chiến thắng, ca ngợi sự hy sinh vì chiến thắng, không chấp nhận nói về nỗi đau buồn, mất mát, về số phận, về định mệnh hay là những thứ tư tưởng dễ khiến người ta ý thức về cá nhân, về quyền của cá thể… Chị biết điều đó nhưng chị lại rất dũng cảm – dũng cảm chứ khôi phải khờ, phải liều-, cứ nói những gì tâm hồn mình, trí tuệ mình thôi thúc! Đơn giản là không gì có thể kiểm soát, lèo lái được; không ai có thể trói buộc được tình cảm và trí tuệ con người:
Lẽ nào em buộc cánh anh
Buộc cánh anh
Buộc cánh anh cũng chẳng thành tình yêu!
Chị là chim bằng, chị phải có và cần có trời biếc! Chị khao khát tự do và lòng nhân. Thế mà…


Áp lực đến từ mọi phía… Lý Phương Liên, cô gái đang độ tuổi xuân sung sức đã phải buông lời nguyền: Phải sống cho ra sống, nhưng không làm thơ nữa! Thế nhưng thơ của chị vẫn được rất nhiều người thuộc, không ít anh lính trẻ ra trận mang trong ba lô tờ báo in thơ chị, cuốn sổ nhật ký chép thơ chị, mang trong tim tình cảm mà chị truyền vào hồn chữ hồn thơ…

Rút từ tác phẩm: Triệu Xuân sống và viết, 2 tập, 800 trang. Sắp xuất bản.

Toàn văn bài TRÒ CHUYỆN VỚI THÚY KIỀU
Hai trăm năm và chảy dài vô hạn
Thúy Kiều ơi, nàng sống tháng năm dài
Trái đất chúng mình cho đến hôm nay
Vẫn còn những cuộc đời như nàng chìm nổi
Thời gian còn nửa ngày là đêm tối
Còn đồng tiền đổi trắng thay đen
Còn sắc tài bạc mệnh với hờn ghen
Còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến
Còn những đất đai triền miên chinh chiến
Thúy Kiều ơi, nàng sống tháng năm dài…
Cho cả những nơi đã sống thật cuộc đời
Bóng dáng nàng cẫn còn trong tiếng hát
Tuổi nhỏ lớn lên rồi biết
Võng bà đưa, nôi mẹ đẩy… câu ru
Thúy Kiều ơi, quá khứ thật vô tư
Nó tương phản bình minh và đêm tối
Nó đơn giản hơn mọi lời giả dối
Thúy Kiều ơi, nàng sống tháng năm dài
Thiên tài của chúng ta đã ôm gọn cuộc đời
Số phận của nhân dân và đất nước
Ai chẳng đã một lần nghe dịu ngọt
Bốn khúc đàn Kiều gẩy từng trang
Bốn tiếng đàn chuyển động không gian
Bốn tiếng đàn lắng thấm vào tâm tưởng
Ôi con người có dễ gì tưởng tượng
Con người khốn khổ thế này chăng?
Thúy Kiều ơi, trong cả tiếng đàn thầm
Tôi nghe nàng như Kỳ, Nha hội ngộ
Bốn tiếng đàn khi mờ, khi tỏ
Khi yêu đương duyên lứa hẹn hò
Khi lầu xanh âm chát, cung chua
Khi tái hợp cung buồn, âm gẫy
Năm ngón tay ròng ròng máu chảy
Ruột gan vò xé ruột gan
Người đau đau cả tiếng đàn
Người đau trong sách nỗi đau dặm dài
Thúy Kiều ơi, Thúy Kiều ơi
Bao giờ người mới thoát đời lênh đênh?
Thời gian đọng lại buồn tênh
Mỗi trang Kiều một mông mênh cõi người…
Thắp hương lạy hỏi thiên tài
Cuộc đời Kiều phải số trời đó chăng?
Nguyễn Du người đã yên nằm
Mà lời định mệnh vẫn thầm nhắc ai…
2
Mẹ em bảo
“Có một đấng thiêng đứng trên đầu trái đất
Đôi mắt nhìn khắp cả xa sau…”
Mẹ em tin như thế từ lâu
Và cầu mong số phận đừng phụ bạc
Niềm tin ấy chẳng bao giờ đổi khác
Chết chồng lủi thủi nuôi con
Mẹ không thể làm gì cho đời mẹ vui hơn
Số phận buộc mẹ vào cơ cực
Những lúc mẹ thầm thào với con về hạnh phúc
Cũng là khi lòng mẹ nguyện cầu
Ai đưa mẹ tới mai sau
Thiên đường của một hành tinh khác
Con kinh hoàng nhận nỗi đau mẹ chết
Cuộc đời này có số phận thật chăng?
Cuộc đời này có số phận thật chăng?
từ mộ huyệt cõi âm vọng đáp
Hãy sống đi rồi biết
Vời vợi cao xanh chỉ thấy mây cười
Mỗi người chúng ta đều có riêng một cửa vào đời
Mẹ biết chọn cửa nào để sinh con sung sướng
Ôi thiên cơ sau cửa đóng
Có đấng nào mách bảo mẹ đâu
Đời con còn đó mai sau
Sống là điều mẹ nguyện cầu cho con
Này cửa thiếp vàng sơn son
Này cửa xanh rờn mây biếc
Này cửa nâu đồng ánh bạc…
Cửa nào cũng khóa chốt, cài then
Hỡi oan hồn định mệnh Đạm Tiên
Hỡi réo rắt tiếng đàn Kiều trầm bổng
Xin đừng dọa người yêu cuộc sống
Em bước lên gõ cửa cuộc đời
Đời của tôi ơi
Em mở vòng tay đón
Hỡi trời cao đất rộng
Đời bao nhiêu sắc mầu, bao cung bậc âm thanh
Sắc mầu nào chẳng vẽ nên tranh
Cung bực nào chẳng thành thơ, thành nhạc
Đại dương nào ẩn trong màu nước biếc
Chẳng sóng ngầm, mắt bão với phong ba
Không có con đường nào toàn bóng mát và hoa
Không có vùng trời nào toàn chim hót
Không có cây khế vàng trong cổ tích
Kho báu cũng không, dù có mật khẩu vừng…
Em đón nhận đời em sau một thoáng hãi hùng
Chôn mẹ, nuôi đàn em thơ dại
An phận ư? Mơ hồ sợ hãi
Sống vẫn là lời mẹ dặn thiêng liêng…
3
Thúy Kiều ơi, nàng nặng nợ Đạm Tiên
Trói mình trong định mệnh
Bẩy nổi ba chìm, lầu xanh am lạnh
Sắc tài năm tháng tàn phai
Tiền Đường tháo cởi nợ đời
Nợ đời không dứt được
Phật không cho nàng chết
Nàng phải tái hồi Kim Trọng ở trong thơ
Trói mình giấc chết như hoa
Trong đêm giấc chất dần dà như say
Sông Hồng đó, nọ Hồ Tây
Chết trong nước cuốn có ngày nổi lên
Kiểu gì chết cũng thấp hèn
Kiểu gì chết cũng làm hoen ố đời
Trên chết chóc muốn dập vùi
Trên đau thương mới là người, người ơi…
Tôi sẽ sống lâu, tôi sẽ sống dài
Tôi tuổi hai mươi, không nơi nào có được
Tôi sinh ra giữa cơn lốc xoáy tròn đất nước
Một ngàn chín trăm năm mươi
Cả dân tộc đổ xuống đầu giặc Pháp
Cơn phẫn nộ muốn làm người
Gian nan chỉ thấy môi cười
Bao máu đỏ nhuộm nên cờ chiến thắng
Hai mươi năm không ai ngồi đếm ngày đếm tháng
Những ngày sáu chín, bẩy mươi
Chẳng có nơi đâu hơn tuyệt diệu con người
Vai gánh nặng cuộc chiến tranh hủy diệt
Mỗi người dân đều nhận phần mất mát
Chia đều nhau bom đạn với cơm ăn
Khó chẳng riêng ai nên khó chẳng một mình
Chung số phận với nhân dân mà chiến đấu
Thúy Kiều ơi, thời tôi sống biết bao người đổ máu
Lúc tuổi hai mươi như nàng
Ai tuổi hai mươi chẳng kháo khát một môi hôn
Ai tuổi hai mươi không hẹn hò, ghen nhớ
Ai tuổi hai mươi chẳng ước ao làm chồng làm vợ
Vậy mà sống mãi tuổi hai mươi…
Em tuổi hai mươi như tất cả mọi người
Chọn số phận ở thời mình đang sống…
Muốn hỏi Kiều, hồn Đạm Tiên có hiện về báo mộng
Thời những trang Kiều bị tan nát đạn bom
Để một mai ai biết Kiều buồn
Đàn nàng gẩy không còn ai nghe nữa
Định mệnh đây, chúng tôi bay qua lửa
Cứu sống Kiều từng trang
4
Thúy Kiều ơi, sao chưa hết bàng hoàng
Đàn tan hợp vẫn âm chìm, âm lạnh
Sao cứ mãi oán than thiên định
Sở Khanh, ưng khuyển bầy đàn
Thời nào chẳng có ngay gian
Nhân định cần chi lời khóc thảm
Hai vai tôi kéo lặc lè đồ đạc nặng
Cũng như nàng, có thể nặng hơn
Có khác chăng, nàng chẳng một đoái thương
Xe đồ tôi ai qua đường cũng đẩy
Những mái tóc bạc phơ hay đỏ cháy
Những nét cười duyên dáng cũng xăn tay
Ai cũng nhận xe đồ tôi chở nặng hôm nay
Là chính xe đồ mình chở nặng
Xung quanh tôi không một ngày buồn vắng
Không một đêm cay đắng tủi hờn
Không một ai có thể giầu hơn
Không ruột thịt mà đầy nhà ruột thịt
Không họ hàng mà xum vầy thân thiết
Không mẹ cha mà đầy đủ mẹ cha
Tôi vượt lên mình thực chẳng êm ru
Nhưng đứng lại thì chưa ngày tôi nghỉ
Tôi cứ đi chuyên cần bền bỉ
Trông xa về phía trời hồng
Thúy Kiều ơi, như người sang sông
Tôi đưa đò cập bến
Năm chị em côi nghỉ dăm ngày trên bến
Sắp đến đoạn đường ra biển dài lâu
Cuộc đời mình chưa lặng gió được đâu
Đất nước chiến tranh nhân dân còn cơ cực
Khi cái chết vãi từ trên phản lực
Bom chùm, bom lửa, bom bi…
Đời còn nhiều gian khó phải qua
Để đến được mùa hoa sai, quả trĩu
Cơ thể của nhân dân cơ hàn đang phải chịu
Số phận mình là số phận của nhân dân
Soi gương đời nhìn thấy hết gian truân
Thấy hết gian truân để mà cười, mà sống…
Đường ra biển có thể dài năm tháng
Mất mát nhiều hơn, gian khổ cũng nhiều hơn
Nhưng một điều chắc chắn phi thường
Chúng tôi sẽ lên bờ vào một ngày nắng đẹp…
Bạn có nghe tiếng gõ cửa cuộc đời mạnh gấp
Vọng từ xa đang nối đến gần?
Là thi nhân xin chớ vội gieo vần
Dù hai chữ viết hoa Định Mệnh
Là nhạc sỹ tài hoa chớ vội ghi lên phím
Tiếng nhân định âm vang…
Thúy Kiều ơi, tôi nghe rõ tiếng đàn
Nàng đang gẩy khúc nào mà bổng trầm réo rắt
Tiếng gõ cửa cuộc đời ngày thêm dồn, thêm gấp
Lắng nghe, lắng nghe… chính tiếng đập tay người
Chúng ta mở cửa cuộc đời
Và cầm lái con thuyền nhân định
Giữa biển lớn thuyền chúng ta lướt đến
Sáng toàn thân ánh sáng của con người!

1970
Lý Phương Liên

Nguồn:http://camphuong.blogtiengviet.net 

Nhận xét

Vũ Thu Huế đã nói…
Giữa biển lớn thuyền chúng ta lướt đến
Sáng toàn thân ánh sáng của con người!
Ngô Văn Cư đã nói…
Chào Huế.
Vắng lâu quá đấy! Ngày 8/3 chúc mẹ con Nhím vui nhé!