Tản văn của Ngô Văn Cư
Lâu lắm rồi tôi chưa được uống nước
chè tươi nên quên rằng ở quê mình ngoài việc uống các loại trà khô đã qua chế
biến thì chè tươi vẫn còn duy trì. Hôm nay, được uống bát nước chè tươi làm cồn
cào cả ruột gan, có lẽ vì chưa quen mà cũng có thể vì thấy bát nước chè tươi lại
nhớ ba tôi. Ba tôi cũng thường uống chè tươi. Mỗi sáng, ông chỉ ăn qua loa rồi
uống một bát nước chè tươi là chịu đến trưa. Sau khi ba tôi qua đời thì hầu như
trong nhà tôi không còn ai uống chè tươi nữa. Gần đây, nghe chè tươi có thể chữa
được nhiều bệnh nên nhiều người lại trồng chè và uống như một cách phòng ngừa bệnh.
Và tôi được người bạn rót cho một bát chè tươi đặc sánh nóng hổi.
Có lẽ, trước đây hầu hết dân ta đều
uống chè tươi. Mỗi vùng, miền có kiểu nấu và uống chè tươi riêng, tạo thành một
phong tục, đại chúng mà ấm áp tình người. Uống chè tươi là kiểu uống trà dân
gian; một thức uống tâm tình không cầu kỳ như uống trà khô đã qua chế biến nên
mỗi khi đặt bát nước chè tươi lên môi làm dậy lên một cảm xúc về văn hóa Việt.
Bởi uống nước chè tươi không chỉ là giải khát mà còn là yếu tố gắn kết mọi người
trong sinh hoạt cộng đồng. Sẽ buồn tẻ và trống vắng biết bao nếu vắng bóng nước
chè tươi trong những cuộc hội hè vừa trao đổi kinh nghiệm sản xuất vừa thư giãn
sau những buổi lao động mệt nhọc. Đó là chuyện của... ngày xưa!
Uống một bát chè tươi có thể xề
xòa, giản dị, không cầu kỳ. Nhưng muốn có một siêu nước chè tươi đúng chất phải
tốn công hơn pha một bình trà khô. Ba tôi là người có tính xề xòa, dễ dãi đúng
chất nông dân nhưng chuyện nấu một ấm chè tươi không đơn giản tí nào. Ba thường
nói nấu chè tươi đúng cách sẽ có một ấm chè đậm đà, không chát gắt, không mùi
ngai ngái của lá chè, màu nước không ôi đỏ. Hồi ấy, bếp nấu dùng bằng củi chứ
chưa hề có bếp điện, bếp ga như bây giờ. Lá chè nấu trong ấm đất mới thật sự
ngon. Thế nhưng, tôi thấy nhiều người dùng bất cứ cái gì có thể pha trà; từ ấm
đất, ấm nhôm, bình thủy... miễn sao cho tiện mà giữ được nước chè trong xanh và
hương vị tươi mát. Đó luôn là bí quyết cho nghệ thuật nấu chè tươi. Có lẽ do
thói quen mà chiếc ấm đất vẫn là dụng cụ nấu và cái bát miệng to tú hụ hoặc mo
cau dân dã được chằm như một cái bát vuông dùng để uống mới đã cơn khát và tận
hưởng hết cái hương vị của nước chè tươi.
Lá chè khi hái về được rửa sạch, vò
nát hoặc cho vào cối giã dập nát mới cho vào ấm đất rồi đun sôi. Kỹ hơn là nấu
nồi nước thật sôi rồi dội vào ấm đất có sắn chè tươi ngâm ít phút lại đổ ra.
Làm thế cho nước chè đỡ ngái. Sau khi “rửa” chè, đổ tiếp nước sôi vào nấu. Ấm
chè phải nấu cho thật sôi nhưng không quá lửa để ấm trà khỏi oi khói và màu nước
xanh đẹp. Nước chè tươi mà bị oi khói thì coi như hỏng cả ấm chè. Uống hết mất
thú vị. Dù chè tươi không nhiều hương vị như các loại trà khô đóng gói bán
ngoài thị trường vì chưa qua chế biến nào để tăng hương vị, nhưng lại hấp dẫn
nhiều người, có lẽ nhờ vào sự giản dị của kiểu uống chăng?
Ở quê tôi Hoài Ân - Bình Định, vùng
đất trung du, miền núi có nông trường chè Gò Loi – xã Ân Tường Tây được thành lập
vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20. Chè Gò Loi được xem là đặc sản nổi tiếng của
Bình Định. Danh tiếng trà Gò Loi đã vượt ra ngoài huyện, ngoài tỉnh. Mỗi dịp lễ,
tết hoặc có khách phương xa thì trà Gò Loi thành món quà không thể thiếu để thưởng
thức, biếu nhau, thật là một niềm tự hào. Thời đó, chè rất hiếm nên có quý nhau
lắm mới biếu nhau gói chè Gò Loi. Không có màu sắc tươi, cánh đẹp như trà Thái
Nguyên, trà móc câu... nhưng vị đậm đà và độ ngọt của nước trà Gò Loi khiến cho
nhiều người khó quên. Có trà Gò Loi vừa tiện lợi vừa thơm ngon đã góp phần cho
kiểu uống chè tươi dân quê tôi dần dần đi vào quên lãng. Gần đây, nông trường
chè Gò Loi đã hồi phục và những gói trà khô đã tràn khắp thị trường thì kiểu uống
chè tươi lại cũng xuất hiện trong nhiều gia đình.
Hiện tại, có một bát nước chè tươi để uống đơn
giản và nhanh hơn ngày xưa nhiều bởi có
bếp ga, bếp điện, ấm nấu siêu tốc, ấm nhôm... Chỉ cần hái lá chè, kể cả lá già
và cành nhỏ bỏ vào cối giã nát rồi nấu sôi là có một ấm chè tươi. Nhưng nhà nào
cũng có nhiều cách giải trí; nào là ti-vi, nào là smatphone, nào là trò chơi điện
tử, nào là hát karaoke... nên không còn cảnh mỗi đêm đến là cả gia đình ngồi với
bát chè tươi kể chuyện ngày xưa. Chè tươi bây giờ thuần là nước giải khát,
thanh nhiệt cho những ngày nắng nóng. Tôi lại nhớ da diết hình ảnh ba tôi vừa uống
chè tươi vừa đọc thơ:
Bán dạ tam bôi tửu,
Bình minh nhất
trản trà.
Nhất nhật cứ
như thử.
Lương y bất đáo gia
(Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác)
(Có nghĩa
là: Nửa đêm ba chén rượu, sáng sớm một tuần trà, mỗi ngày được như thế, lương y
không đến nhà!)
Cái tinh thần dưỡng sinh tôi học ở ba tôi từ chuyện uống
nước chè tươi mỗi đêm bên hiên nhà như thế. Dẫu rằng, có lẽ trà mà Lê Hữu Trác
nói không hề giống bát nước chè của ba tôi. Tự nhiên, mỗi lần nhìn ấm nước chè
tươi, tôi lại mong đêm nay cúp điện để cả nhà được tụ tập dưới mái hiên nhà...
NVC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét