(Đọc GIÓ MIỀN LỤC BÁT của VẠN LỘC)
Tôi quen biết với chị Vạn Lộc từ năm 2011,
khi công ty Đất Việt ra mắt tập thơ Lục Bát Việt tại Đà Nẵng, rồi năm 2013 lại
gặp chị khi dự ngày Hội thơ Đường toàn quốc lần thứ tám ở Thanh Hóa. Tôi mặc định
chị là người viết thơ Đường luật khi đọc tập Lá Thức (1912), dù chị có viết nhiều
thơ tự do, lục bát trên báo, tạp chí... Đọc tập GIÓ MIỀN LỤC BÁT (nxb HNV,
5/2021) lại nhận ra giọng điệu thơ cũ đã có nhiều đổi mới, đầy bản sắc, không
mòn cũ, khuôn sáo, đẹp đẽ trong nhịp sáu tám.
1. Trăm năm ru một chút tình ngàn năm
Tôi lần theo cảm xúc của Vạn Lộc từ câu
thơ “Một đời gánh nắng, gánh mưa/ Một đời
lắm mất, nhiều thua một đời” (Gió miền lục bát) để nhận thấy thơ của chị lấy
chất liệu từ đời thường về quê nhà, tình yêu, gia đình... rất riêng mà cũng rất
chung. Người đàn bà vượt qua ngưỡng tuổi xưa nay hiếm mà còn khóc cha mẹ vừa là
niềm hạnh phúc vừa là nỗi đau của kiếp người hữu hạn:
Giờ đây mây gió hồng trần
Cha thương, để lại phước phần cho con
Ơn cha tựa biển, tựa non
Nhớ cha, nỗi nhớ đầy hồn cha ơi!
(Cha)
Dáng mẹ tảo tần trên quê nhà no ấm hiện
lên tuyệt đẹp qua cảm xúc của Vạn Lộc. Chị nói về mẹ mình như chính tâm trạng của
độc giả không còn mẹ. Thơ chị lan tỏa là nhờ vào những điều như vậy:
Lối quê xưa vẫn con đường
Biển dâu, đồng lúa thơm hương ngõ về
Làng mình vẫn ngát bờ tre
Mẹ theo hương khói mẹ về mẹ ơi!
(Ngày giỗ mẹ)
Mong mẹ theo hương khói mà về, lại muốn
cùng mẹ ra đi là tâm trạng của người đã trải qua hết nổi chìm dâu bể sắp “đáo bỉ ngạn” để đoàn tụ cùng mẹ. Chị Vạn
Lộc sẵn sàng cho mình một chuyến đi xa như là về bên mẹ cũng thấu đáo và hợp lẽ
nên người đọc không thấy bi lụy, hụt hẫng:
Lá vàng con cũng sắp rơi
Trập trùng mong được về nơi mẹ nằm
Được về bên mẹ ngàn năm
Hết mồ côi, ngắm ánh rằm cũng vui.
(Vu lan)
Vạn Lộc còn dành nhiều bài thơ viết cho
người chồng của mình. Từ buổi tóc còn xanh, môi còn hồng chị đã chấp nhận tất cả
khi tình yêu đã bén:
Em làm dâu tận xứ người
Mấy đèo, mấy suối xa xôi lại gần
Câu thơ duyên nợ mùa xuân
Nhọc nhằn cũng tận, gian truân cũng nhiều.
(Đôi dòng sông thương nhớ)
Khi tuổi đã cùng, sức đã kiệt, tình đã
đong đầy, nghĩa đã trải dài mênh mang thì Vạn Lộc vẫn một lòng sắt son với tình
yêu của mình:
Bây giờ
còn chút yêu tin
Bây giờ đã hết nổi chìm rồi anh
Lá vàng đâu còn thời xanh
Dìu nhau đi trọn thác gành đời nhau
(Dìu nhau thôi anh ơi)
Chỉ có thể bắt nguồn từ tình yêu mới có một
ước muốn rất đàn bà:
Gọi tên người, suốt nghìn năm
Còn thương xin hãy hóa rằm đợi nhau.
(Hóa rằm đợi nhau)
Bản lĩnh lắm, mạnh mẽ lắm, dứt khoát lắm mới
có thể thoát bóng tối mà “Tôi đi về phía
ban mai/ Nghe sau lưng, tiếng thở dài rưng rưng!” (Cổ độ) Chấp nhận chuyện hợp tan của tình
yêu, vô thường của cuộc đời nhưng mấy ai chẳng thấy đau lòng vì tan hợp trong
cuộc đời vô thường này:
Dẫu đà biết hợp rồi tan
Lòng em vẫn thấy muôn vàn thương đau
Trọn tình hai chữ đậm sâu
Rồi mai ai sẽ bên cầu đợi ai?
(Anh giờ như áng mây bay bên trời)
Người đọc có thể tìm thấy nhiều câu thơ,
đoạn thơ, bài thơ mà Vạn Lộc đã trải lòng với nhiều cung bậc khác nhau khi nói
đến tình nghĩa vợ chồng. Đau thương nhưng không bi lụy. Chị có lối so sánh, ví
von rất hình ảnh vừa chân thực vừa hợp lý đã chinh phục được tình cảm người đọc.
Với chồng thì “Một đời muối mặn gừng cay/
Anh là biển, để sóng đầy hồn em/ Lúc vui, lời hát dịu êm/ Muộn phiền, quất ngọn
sóng mềm roi đau” (Một đời là mấy buồn vui). Với các con thì “Máu nào chẳng ngược về tim/ Nước mắt xuôi
chảy nỗi niềm cháu con/ Thương nhau, ngọt quả bồ hòn/ Mẹ vui về với hoàng hôn của
mình.” (Yêu thương gởi lại). Với cháu thì “Mỗi cháu là một niềm xanh/ Là miền hoa trái trĩu cành ngát hương” (Ban
mai xanh). Đọc thơ Vạn Lộc không hề thấy nhàm lặp, khuôn sáo hẵn là từ sự từng trải và tâm hồn
phóng khoáng:
Một đời gánh nắng, gánh mưa
Một đời lắm mất, nhiều thua một đời
Trăm năm vẽ lại nụ cười
Tô màu son héo, giặm tươi tím hồng
(Gió miền lục bát)
Viết về người thân trong gia đình dễ trùng
lặp ý tưởng với một ai đấy đã viết; hoặc khuôn sáo, hoặc cứng nhắc, hoặc ước lệ...
nhưng Vạn Lộc đã vượt qua.
2. Bàn tay nắm lại nhưng không có gì
Tôi đã đọc thơ tình của nhiều tác giả
trong và ngoài nước. Đọc các nhà thơ nữ thường thấy hiện lên nỗi dằn vặt về
thân phận; đau đáu về trách nhiệm làm vợ, làm mẹ; lo toan về giang sơn nhà chồng...
nhưng mấy ai nói rõ công việc viết lách của mình như Vạn Lộc:
Người đàn bà viết thơ tình
Là vẽ nước mắt chênh vênh phận buồn
Là mưa đầu núi, cuối sông
Là nắng đổ lửa trên đồng cháy khô
(Người đàn bà viết thơ tình)
Người đàn ông viết thơ tình, dù là ca ngợi
vẫn để chinh phục, để mời gọi, để thu hút, để “thả thính” mà vươn tới để sở hữu
thì người đàn bà viết thơ tình vẫn vậy nhưng đâu chỉ bấy nhiêu. Người phụ nữ tỉ
mỉ tẩn mẩn chăm chút yêu thương của mình mà thương, mà đau:
Người đàn bà đếm yêu thương
Mỗi câu thơ, mỗi đoạn trường thương yêu,
Ruột đau đâu chỉ chín chiều
Trắng mây đầu núi, lòng triều càng đau
(Chín chiều ruột đau)
Thơ thường chợt đến khi nỗi cô đơn cùng cực.
Nhưng đến nỗi “bơ vơ một mình” là tột đỉnh của cô đơn, trong lúc ở đâu đó “thiên
thu đang chờ”, thật là đớn đau. Vạn Lộc không né tránh, bình thản nhìn vào nỗi
cô đơn đã lựa chọn cho số kiếp của mình. Dẫu chị có “nước mắt rớt vào thơ” tiếng
thơ của chị vẫn da diết, vẫn trong trẻo lăn lóc giữa đời:
Chào tôi về với sa mù
Bên kia đồi gió, thiên thu đang chờ
Giọt nước mắt rớt vào thơ
Thấy hồn tôi đứng bơ vơ một mình.
(Thiết tha tôi gởi lời chào trần gian)
Đôi lúc ta thấy Vạn Lộc như buông xuôi tất
cả. Nhưng không, chị vẫn quay lại cuộc đời này gởi chút tin yêu: “Thôi về ru cỏ à ơi/ Ru tim đắng đót một thời lãng quên/ Về thôi về với mông mênh/ Trăm
năm ru một chút tình ngàn năm...” (Cỏ hát ca dao). Được như vậy là chị đã
trải qua tất cả những vui buồn, sướng khổ và chạm chân vào cõi mênh mông không còn
buồn vui, sướng khổ của cuộc đời: ‘Tuổi
giờ, bảy tám mùa xuân/ Đã nghe mưa nắng, lưng chừng hỏi thăm/ Hạc mây, đã níu
ánh rằm/ Đã thăm thẳm, đã xa xăm một đời” (Mùa xuân). Chị thấu hiểu quy luật
của tự nhiên, không hề oán than, trách móc mà nương theo một cách lạnh lùng để
chấp nhận cõi vô thường:
Đêm ba mươi, thắp nén trầm
Nghe hồn xuân đã trong ngần thoảng hương
Ba tám năm với vô thường
Lòng đau là biết đoạn trường, rứa thôi...
(Mùa xuân)
Rứa thôi! Thơ Vạn Lộc được viết theo đề
tài nào cũng thấm đẫm chất thiền. Chị không hề cố gắng gán ghép những “kinh kệ’
của thiền môn vào thơ để làm ra vẻ triết lý thâm sâu. Ở tuổi chị, tâm hồn bước
vào cửa thiền cũng hợp lý và không hề xa lạ với cách sống của người Việt Nam. Nhưng
đâu phải ai cũng chấp nhận “thấy mình còn đắm u mê”:
Thì thôi, vui với ánh rằm
Nương chuông, nương mõ xa xăm, tôi về
Đêm mơ dưới cội bồ đề
Thấy mình còn đắm u mê đời mình
(Mai rồi xong cuộc tử sinh)
Có thấu hiểu lẽ tử sinh mới có những câu
thơ thấm thía làm cho ta yêu hơn cuộc đời hiện tại này:
Lênh đênh trong lòng bàn tay
Nắm mở chi, cũng vơi đầy hư không
Rồi mai về với cánh đồng
Bàn tay lại nắm những không có gì
(Vô ưu kinh)
Tôi tin vào chị “... rửa sạch bụi trần/ Câu kinh mầu nhiệm tháng năm tạc lòng” (Diệu
pháp) để mà đốn ngộ: “Có hòn đá hát mồ
côi/ Niết bàn mở cửa, Phật ngồi trong tim” (Vô lượng kinh); mặc dù: “Đâu nguồn cội, đâu quê nhà/ Thương yêu chi
mấy cũng là hư vô” (Đóa vô ưu). Tất
cả những mâu thuẩn nội tại cảm xúc đã thống nhất trong tên gọi mới là NGỘ!
3. Thôi thì thưa với xưa sau...
Khép tập thơ với 67 bài lục bát, không thể
với vài ý kiến nhỏ như trên là đã rạch ròi cảm xúc của Vạn Lộc gởi vào đó; mà
chưa hẳn người đọc đã cảm nhận hết và đúng ý tưởng của tác giả. Nhưng điều đó
có sao đâu! Thơ vốn dĩ “Ý tại ngôn ngoại” mà. Cảm ơn chị Vạn Lộc đã có những vần
thơ sáu tám mượt mà vần điệu, sang trọng câu chữ, thuần khiết cảm xúc, tràn đầy
năng lượng lan tỏa đến mọi người để độc giả biết bao dung, yêu thương nhau hơn.
Xin về mót hạt lúa vàng
Quê xưa sót lại, mênh mang đồng chiều
Câu thơ tôi lắm tin yêu
Cho thương yêu để thêm nhiều yêu thương
(Mót hạt lúa vàng)
Chúc mừng chị Vạn Lộc với tập thơ “Gió miền
lục bát”, chúc chị đủ sức khỏe để tiếp tục gặt hái những thành công khác trên
cánh đồng thơ tươi sắc và thắm hương.
NVC
(Tôi và chị Vạn Lộc ở Hàm Rồng - Thanh Hóa, 1913)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét