NHỮNG NGÀY THÁNG ÁC LIỆT “Ở ĐẤT K”


 (Đọc ĐẤT K của Bùi Quang Lâm)

 

Tôi quen Bùi Quang Lâm là từ cái duyên văn nghệ, rất ngẫu nhiên khi tôi hẹn cà phê với một người bạn văn khác. Rồi từ chỗ cà phê vỉa hè, chúng tôi cùng kéo sang quán nhậu. Đơn giản thôi nhưng rất ấm tình. Lần đầu gặp nhau nhưng như đã quen biết từ lâu bởi những câu chuyện trên trời dưới đất. Và anh rút ra từ chiếc cặp nhỏ mang bên mình tặng tôi cuốn “Đất K”. Thật tình, nhìn cuốn truyện ký viết về chiến tranh dày hơn 320 trang do Nxb Hội Nhà văn cấp phép, tôi nghĩ khó mà đọc hết tập. Nhưng vì được tặng nên phải đọc vì có quý nhau lắm mới tặng sách cho nhau. Thật bất ngờ là sách đã lôi cuốn tôi ngay từ trang đầu tiên, một cuốn sách chân thực về những người lính tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Campuchia.

 


(Bùi Quang Lâm và Ngô Văn Cư ở quán Đất Phương Nam năm 2020)


1.     Còn đó nhiều vết thương

 

Chiến tranh là điều không ai mong muốn. Tuy nhiên dân tộc ta suốt thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước tuyền là chiến tranh. Hết giặc phương bắc đến giặc phương nam; hết giặc gần đến giặc xa; hết ngoại xâm đến nội chiến; nên bây giờ ta trân quý biết bao khi có chút không khí hòa bình. Rồi còn phải tình nguyện sang nước bạn Campuchia giúp nhân dân họ khỏi nạn diệt chủng. Thế nhưng Mặc dù chiến tranh đã lùi xa, nhưng mỗi lần nhắc đến thì hình ảnh khốc liệt và cái vuốt mắt đồng đội hy sinh vẫn trở lại, vẫn mới toanh trong tiềm thức(trang 289). Chiến tranh đâu chỉ có cái chết. Đôi khi cái chết nhẹ nhàng hơn là sự mất mát tưởng chừng như nhỏ nhặt nhưng tạo thành một vết thương khó lành: “Chiến tranh hất văng chúng tôi khỏi ghế nhà trường, bóp dúm hoài bão tuổi trẻ, bẻ gãy con đường đến tương lai tươi sáng.” (trang 32) hoặc khi phiên gác đầu tiên vừa bước chân vào quân ngũ: “Tôi còn nhiều ngỡ ngàng. Cây súng tựa vai, bờ vai thư sinh của học trò cầm bút. Tôi nhớ nhà vô hạn.” (trang 7). Người lính vừa buông cây bút đã cầm cây súng ấy như khó có thể hòa mình vào cuộc chiến giúp cho đất nước bạn khỏi nạn diệt chủng vừa để bảo vệ mình. Mà làm sao có thể hòa mình khi “Mỗi người mang trong mình nỗi niềm riêng sâu kín không thể chia sẻ và hoàn cảnh cuộc đời không giống nhau cũng khó lòng chia sẻ?” (trang 258). Chỉ có tình đồng đội, tình yêu con người mới có thể “hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”; chỉ khi kề cận với cái chết, với thiếu thốn mới thấy ngụm nước, giọt máu là quý báu, thiêng liêng mà vững bước vào mỗi trận đánh: “Những chứng kiến tận mắt trên dọc ngang từ đường hành quân biên giới cho tôi cảm nhận nhiều điều sâu sắc về tình đồng đội trong hiểm nguy, gian khổ, bài học làm người, đáng quý. Chén cháo, ly sữa do đồng đội nhường lại thật ấm áp nghĩa tình, là động lực thôi thúc tôi vào trận.” (trang 107)

Cuộc sống đời lính thật khốc liệt. Bản thân chưa bị tử thần gọi đi, thân thể còn lành lặn nhưng “Trong tích tắc có thể thành tro bụi. Đời người thật dài cũng thật ngắn.” (trang 116). Còn lành lặn nhưng không thể không mang một vết thương nào. Người bạn mới đây cùng mình chia ngọt xẻ bùi, cùng hút chung điếu thuốc, cùng chung chiến hào tiêu diệt giặc, tưởng chừng sẽ cùng ra quân hưởng hòa bình; nào ngờ lại nằm ở chiến trường. Một vết thương lòng không dễ gì nguôi ngoai về tình đồng đội, khi Phước “cô ba” hy sinh: “lòng tôi quặn thắt vì mất nó, người chiến hữu dù ốm yếu vẫn cùng chúng tôi dọc ngang năm tháng chiến trường. Nó hiền như đất, đi đứng ẻo lả như là con gái nên anh em gọi nó là Phước “cô ba”. Thực chất trong con người “cô ba” ấy là sức mạnh tiềm tàng, ẩn kín trong trái tim nồng nàn đầ tình đồng đội” (trang 127). Thế đấy, người lính đâu chỉ giết giặc bằng lòng thù hận, bằng tình thương đồng bào mà mỗi hành động, suy nghĩ bắt nguồn từ tính nhân văn được nuôi dưỡng bởi trầm tích cội nguồn văn hóa dân tộc. Thế nên trong gian khó, kề cận với cái chết; bất ngờ cô gái bạn học Mã Kim Phượng xuất hiện trong không gian dày đặc khói lửa là những phút lãng mạn hiếm hoi của người lính ở chiến trường:

“Tôi luống cuống, hỏi:

-Anh có làm gì phật ý em không?

-Có! – Phượng đáp gọn.

-Chuyện gì vậy em? –Tôi hỏi.

Phượng đáp nhanh:

-Sao không hôn em?

Như bé con được quà, tôi siết chặt Phượng trong vòng tay và hôn lên trán, lên môi. Phượng vòng tay ôm cổ tôi, hơi thở ấm áp của em như sưởi ấm lòng tôi.” (trang 207)

Hoặc một buổi thư giãn giữa hai trận đánh, giữa hai cuộc hành quân là tinh thần lạc quan, vui đời của chiến sĩ trẻ: “Sau bữa cơm chiều nóng sốt, bộ đội có dịp trò chuyện thoải mái, râm ran. Đại đội phó Đặng Sĩ Hoàng là người có óc khôi hài nhất. Những câu chuyện anh kể nghe tục tục lại thanh thanh, nhẹ nhàng và rất duyên.” (trang 71)

Bùi Quang Lâm viết như không chú tâm đến dụng công gọt giũa nghệ thuật nhưng người đọc cũng không hề quan tâm điều ấy. Độc giả theo từng bước chân của tác giả và đồng đội để thấy mỗi ngày trôi qua trên đất bạn là một lần khắc vào lòng những vết thương. Không phải chỉ cái chết của bạn bè mà cả mối tình chớp nhoáng giữa khói lửa chiến trường cùng những lời đùa vui của tuổi trẻ đều là vết thương không thể lành da trong đời người lính.

 

2.     Tất cả là máu nhưng không đều là máu

 

Con người là vốn quý nhất. Nhưng chiến tranh lại nhằm hủy diệt con người. Một điều tưởng chừng như phi lý nhưng thực tiễn xã hội loài người đã cho ta thấy rõ điều ấy. Vũ khí ngày càng hiện đại, sức tàn phá càng lớn thì sự hủy diệt con người càng ghê gớm. Rất may là chiến tranh không chỉ là súng đạn vô tình mà còn có cả những trái tim biết yêu thương hoặc căm giận đúng chỗ. Đất “K” của Bùi Quang Lâm đã để nhiều trang sách nói về tính nhân văn ấy của người lính khi cầm súng: “Chúng tôi dạn dĩ, lớn dần trong chiến tranh. Nhận thức sự sống đáng giá biết bao. Yêu thương đồng loại cũng cần thiết biết bao. Đất “K” đang cần lắm sự cứu sinh. Họ chờ phép nhiệm màu để thoát khỏi bàn tay man rợ, diệt chủng. Kẻ thủ ác giấu mặt đứng sau lưng Pôn-Pốt.” (trang 33). Tác giả không hề chỉ mặt đặt tên nhưng người đọc nhận ra kẻ chủ mưu diệt chủng dân tộc Campuchia là ai rồi. Chúng gian manh không hề chường mặt ra phía trước mà đứng phía sau xúi giục. “Tham vọng bành trướng điên cuồng còn lấp ló đâu đó sau lưng cuộc chiến trên đất nước Chùa Tháp.” (trang 124). Cái tham vọng bành trướng này đã phá hủy thành quả người dân lao động nhiều đời tạo nên; đời người trở nên mong manh, ngắn ngủn: “Phía thượng nguồn con suối là những phun sóc trù phú một thời, giờ vắng vẻ, đìu hiu, buồn thảm. Người dân đã bị lính Pôn-Pốt lùa vào công xã lao động cực hình. Người già, bệnh và trẻ con bị chúng giết sạch. Sự sống con người ngắn như lóng ngón tay.” (trang 80). Hoặc đôi khi thấy: “Trên sông vài xác chết trương sình nổi lều bều cặp bờ do sóng nước đẩy vào. Trên bờ, rải rác đây đó những xác chết đang phân hủy. Cảnh tượng nhìn đến rợn người, dù tôi đã quen mắt.” (trang 220).

Có sống trong chiến tranh, kề cận với cái chết mới quý giá giây phút hòa bình. Đó là tâm trạng của người lính tình nguyện “Trên đường hành quân ngang các phun sóc, đây đó đã có người dân về ở. Dù còn đìu hiu, nhưng có dân ở chúng tôi cũng thấy yên lòng. Họ sống một phần nhờ phụ giúp lương thực từ Việt Nam chuyển qua.” (trang 126). Khi có người dân về ở thì phun sóc sẽ hồi sinh. Sự sống sẽ đâm chồi nảy lộc. Hạ tầng cơ sở sẽ xây dựng lại. Người lính tình nguyện Việt Nam sẽ trở lại đời sống bình thường, xa dần với cái chết đột ngột. Chúng ta trân quý món quà đơn sơ mà đầy tình nghĩa và người lính không hề so đo khi máu xương đổi lấy “trái bưởi, cam, thốt nốt” vì biết rằng trong đó còn có cả lòng biết ơn: “Hai bên đường, những người dân trẻ, già nô nức vẫy chào tạm biệt  chúng tôi. Họ trao cho bộ đội Việt Nam món quà giản dị là những trái bưởi, cam, thốt nốt bằng cả tấm lòng biết ơn, trìu mến. Trên gương mặt họ, dòng nước mắt chảy dài khiến chúng tôi bồi hồi xúc động. Họ và bộ đội Việt Nam đang chia tay nhau. Cuộc chia tay đoàn tụ.” (trang 116). Đọc tới hình ảnh này, độc giả mới thấm thía câu nói của tác giả Bùi Quang Lâm: “Tất cả là máu nhưng không đều là máu...”.

 

3.     Vĩ thanh

 

Trên 320 trang sách không thể nói bấy nhiêu là đủ. Còn biết bao chuyện khi Bùi Quang Lâm đã hoàn thành nghĩa vụ lính tình nguyện. Khi đất nước chưa qua thời bao cấp và bóng dáng xã hội phồn vinh còn xa vời thì cảnh nhà túng quẫn, thân phận khốn cùng của tác giả khiến độc giả nghẹn lòng. Nhưng đâu phải chỉ mình anh, biết bao thân phận cũng đã hy sinh tuổi thanh xuân và nhiều thứ khác để theo đuổi một lý tưởng và rốt cuộc là rơi vào quên lãng. Bùi Quang Lâm vẫn còn một vùng “Đất K” để sống với quá khứ và người đọc nhận ra anh ở hiện tại “mặt mũi rằn ri mái tóc dài” mà hy vọng... Cho dù hôm nay anh bước vào trận chiến mới, bởi: “Chiến tranh có thể xuất phát từ nơi này hoặc nơi khác.” (trang 162).

Khi tôi viết xong bài này thì biết tin tập truyện ký “Đất K” được giải thưởng năm 2020 của Hội Nhà văn Tp HCM. Chúc mừng Bùi Quang Lâm và mong được đọc tác phẩm khác của anh.

Ngô Văn Cư

 


 

 

 

 

 

 

Nhận xét