ĐI GẶP NGƯỜI CANH CHỪNG LÃNG QUÊN

(Đọc CANH CHỪNG LÃNG QUÊN của VƯƠNG CƯỜNG)

 

 

Tôi có thói quen đọc sách cũng vì từ nghề nghiệp mà tôi theo đuổi – nghề dạy học! Sau này lại đổ đốn làm thơ, viết văn nên bạn văn cũng nhiều; lại có dịp đọc văn chương của bạn bè. Có người tôi đã gặp ngoài đời; có người tôi chỉ gặp trên trang văn, con chữ.  Nhà thơ Vương Cường là người tôi chỉ gặp nhau trên con chữ khi đọc tập “Canh chừng lãng quên” mỏng tang gồm 30 bài thơ cùng hai bài viết của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và nhà thơ Trần Quang Quý. Nói tập thơ mỏng là nói đến độ dày, về số lượng bài của tập chứ hồn vía của câu, chữ không hề mỏng chút nào.




Tập thơ “Canh chừng lãng quên” chia làm ba phần nội dung riêng biệt (nhưng vẫn có sự đan xen cảm xúc giữa các phần): Chiến tranh trong nỗi ám ảnh; những ký ức đẹp trong làng quê và tình yêu cùng những chiêm nghiệm về đời sống. Nhưng với tôi, nỗi đau về chiến tranh trong thơ Vương Cường ám ảnh mãi trong tôi không phải vì vần điệu hay sự dụng công về nghệ thuật mà vì sự thật; một sự thật trần trụi, đau thương mà không bi lụy:

Bạn tôi chết

không còn mẩu xác

đất Cổ Thành

cỏ chẳng bón mà xanh

(Thơ)

Chiến tranh đã đi qua nhưng còn một cuộc chiến khác trên quê hương; đó là “những khu rừng cháy, những bãi bom”, những cái chết âm thầm, dai dẳng như  cơn giông truy đuổi người thiếu phụ; nhưng sức mạnh của thơ đã xoa dịu vết thương:

những câu thơ bị thương

lấp lánh

lăn

lăn

cơn giông không xóa được...

(Cơn giông)

Như thế có nghĩa là trách nhiệm của thơ thật lớn. Với quan niệm thơ như thế nên chúng ta rất dễ hiểu khi từ trang đầu tập thơ, nhà thơ đã ghi một slogan như một sự khẳng định nhiệm vụ của mình “Tôi mơ làm chó đá/ đứng canh chừng lãng quên” (Tôi mơ),  cho dù tập thơ còn ghi lại nhiều về quá khứ người lính đầy đau thương; làng quê đổi mới nhưng dần dần mất đi truyền thống; cuộc sống hiện đại đang đánh rơi nét đẹp cổ truyền. Chúng ta càng hiểu hơn khi nhà thơ “Một sớm thấy tóc mình bạc trắng/ đất nước bốn bề lại giặc/ giặc không ở trên cao/ không ở trước mặt/ không ở sau lưng/ giặc từ trong ta/ không đánh lén.” (Một sớm thấy tóc mình bạc trắng). Giặc từ trong ta không đánh lén nhưng ta có thể nào chống đở được?! Làm sao chống đở được khi người lính già ngồi ôm hai đứa con cũng đã già bệnh tật vì người cha mang chất độc dioxin từ ngày ở chiến trường. Cuộc chiến này khó nhận diện được kẻ thù nên không thể chống đỡ được. Người lính xưa gan dạ biết bao giữa bom thù đạn giặc, bây giờ đành chịu bó tay nhìn hiện tại và tương lai mình đang què quặt, chết dần chết mòn dù đôi mắt còn nguyên vẹn thần sắc để người đồng đội cũ nhận ra nhau:

Nếu không có cặp mắt, thuở Cùa sót lại

tôi làm sao nhận được bạn tôi?

cụ già ngồi kia hát dỗ

hai cụ già con ú ớ cười

(Thăm đồng đội cũ)

Người lính già ngồi đó nhìn cuộc sống đi ngang qua mình khắc nghiệt, lạnh lùng như đồng đội mình ngày xưa đã chết hai lần. Không phải cái chết rùng rợn trong “Một ngày mùa đông, hai bên là rừng, một chiếc xe tang, trái mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan” (Ngụ ngôn của mùa đông – Trịnh Công Sơn); mà là cái chết từng phần. Lần thứ nhất người lính còn sống phải đưa tang cái chân của mình vì bị bom cắt đứt; lần thứ hai đồng đội anh lại đưa tang chính anh với đôi nạng gỗ! Người chết hai lần như thế mà cuộc đi vẫn chưa trọn:

Mộ chân,

coi như không mộ...

...

Thôi từ giã một đời đi sau

cuộc tìm kiếm lại mới bắt đầu

người chết hai lần

cuộc đi chưa trọn...

(Người chết hai lần chưa trọn cuộc đi)

Tác giả tự nguyện “canh chừng lãng quên”, nhưng ta tin rằng không một ai quên cuộc chiến khốc liệt đã xảy ra trên mảnh đất hình chữ S này suốt mấy thập kỷ và mấy vạn người đã nhẹ nhàng đi vào lòng đất mẹ! Tác giả đến với đồng đội từ người còn sống cùng với tuổi già bệnh tật; với người chỉ còn là bóng dáng kỷ niệm trong một giấc mơ lạ lẫm mà “Cõng bạn đi chơi”; một người bạn là một người chết không còn đôi chân, “Cái thằng hai mươi tuổi”, mãi mãi ở tuổi hai mươi! Mà đâu chỉ một người! Có cả “mười ngàn đồng đội” như thế!

Đi về xứ thần tiên

nơi mười ngàn đồng đội tôi sinh sống

....

Đêm ở xứ thần tiên

sao mà muốn khóc...

(Đêm ngủ ở nghĩa trang Trường Sơn)

Có lẽ vì thế mà: “Không ai bắn mình mà trái tim buôn buốt” (Một sớm thấy tóc mình bạc trắng) để tác giả Vương Cường tự nguyện “Canh chừng lãng quên”? Tác giả đã “canh chừng” từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai như sợ mọi người quên đi một thời gian khổ, đau thương nhưng oanh liệt và vinh quang. Một “ước mơ” đáng trân trọng!

Nơi dễ tổn thương, dễ thay đổi nhất là làng quê; nhất là trong thời kỳ đất nước hội nhập này. Nơi ấy có biêt bao “trầm tích” truyền thống cần lưu giữ, nhưng “đường trở về làng, càng đi càng xa” khiến người “hoài cổ” hụt hẫng:

Cánh đồng khác xưa 

con đường quanh co, duyên làng biến mất  

hàng cau lính gác, trầm tích luân hồi....

ít gặp người quen, thấy nhiều người lạ  

tôi đi với chiều, bao nhiêu là gió

đường trở về làng, càng đi càng xa...

(Về làng)

Có nỗi đau nào hơn “đường trở về làng, càng đi càng xa”, trong khi nơi ấy còn biết bao kỷ niệm, bao nhiêu bạn bè cùng trang lứa quên tất cả chức quyền, học vị, thứ bậc trong xã hội để được gọi “mày, tao” như hồi còn trẻ con:

Có đứa anh hùng, có thằng bộ đội  

có đứa làm thơ, có thằng xe ôm  

có đứa cử nhân, có thằng tiến sĩ

đã về đây theo trật tự làng.

(Bạn cùng làng)

Nhưng người “canh chừng lãng quên” đôi khi cũng phải “ngơ ngác, ngẩn ngơ”  giữa làng khi rất nhiều điều ở làng đã không còn nữa. “Hồn làng ám khói” “ma làng” trong thơ Vương Cường cứ ám vào tôi không phải vì hình ảnh ám khói hoặc ma mị mà ở sự diễn đạt vượt ra khỏi thói quen là khi nói đến nguồn cội của “làng” là hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình... hiện lên. Sự tìm tòi tứ thơ, hình ảnh, ngôn ngữ qua lao động nghệ thuật thể hiện thật rõ ràng:

Tôi nổi da gà giật mình ngơ ngác  

hồn làng ám khói đã từng mây bay...

(Hồn làng)

Những con ma làng đi mất  

tôi ngẩn ngơ đứng giữa tim làng...

(Những con ma làng)

Tôi chợt thấy tác giả “đứng giữa tim làng” đơn độc mà không cô đơn; ngơ ngác mà không ngạc nhiên, đổ lỗi; nổi da gà nhưng không vì run sợ; không thấy nhưng không hề lãng quên... Vì thế tôi tin ai đã đọc tập thơ này sẽ không xét nét về câu chữ, vần điệu mà hòa vào cuộc sống tâm hồn của tác giả để “canh chừng lãng quên”. Thôi, tôi không lan man nữa, mời các bạn đọc bài thơ tôi trích trọn vẹn này để hiểu thêm tác giả!

TÀU CHẬM

 

Anh đến sớm  

sân ga gió lùa bốn phía

mà phía nào gió cũng gió lào thôi.

 

Em trở về

bụi giăng mờ yêu mến 

mỗi bước đi gió hun hút vật vờ...

 

Tàu đến chậm

anh một mình thăm thẳm

một mình anh thăm thẳm với mong hờ...

(Tàu chậm)

Có một điều khiến tôi đọc tập thơ ”Canh chừng lãng quên” của Vương Cường chậm là tất cả bài thơ trong tập đều được tác giả đặt dấu chấm lửng (...) ở cuối bài nên sau khi đọc xong một bài thì tôi gấp sách lại để tứ thơ lan tỏa trong tôi theo cùng con chữ. Tôi nghĩ tác giả đã nhọc nhằn với con chữ như thế nào trong từng ý thơ, điều ấy làm tôi thêm trân trọng, yêu quý! Tôi tin tác giả lầm lũi một mình trong hành trình tìm chữ nghĩa nhưng không hề đơn độc khi hàng triệu con tim cũng đang cùng tác giả lặng lẽ canh chừng sự lãng quên quá khứ. Bởi độc giả đang nhận ngọn lửa ấm nồng từ trái tim nhân hậu đầy trách nhiệm của nhà thơ. Điều ấy, trân quý biết bao nhiêu.

.

Lời cuối cùng: Cảm ơn tác giả đã tặng sách!

 

 



Nhận xét