Trích ĐIỂM QUA MỘT SỐ CÂY BÚT TẢN VĂN BÌNH ĐỊNH
Của Ths, Nhà
thơ Trần Hà Nam
……….
Nhà giáo, nhà văn Ngô Văn Cư in sách khá nhiều, đặc biệt
là sau khi rời bục giảng, anh có thể toán tâm toàn ý cho viết lách. Có một điểm
đáng chú ý là người bạn của anh – nhà văn Nguyễn Trí, hội viên Hội Nhà văn Việt
nam – đã hé lộ trong truyện ngắn, khi kể trong một số tác phẩm, nhắc đến tên họ
đầy đủ không hư cấu, cho biết anh có niềm đam mê sáng tác, viết báo tường từ
thuở học sinh đệ tam thời trước 1975. Phải vài chục năm sau, khi đã đi dạy, trải
nghiệm cuộc sống nhiều, anh mới tiếp tục viết truyện, làm thơ và viết cả trường ca. Nhưng tôi cho rằng,
với tản văn Ngô Văn Cư thật sự tạo được dấu ấn, ít nhất là với bản thân tôi.
Trước hết xin điểm qua tập hợp những tản văn trong Mây ở phía quê nhà! Anh viết rất thật
những cảm xúc gắn với quê nhà từ thuở ấu thơ, trải qua thời giao tranh “vùng
xôi đậu” quốc gia – cộng sản, những kỷ niệm thời dạy học cho đến lúc nghỉ hưu
vui vầy cùng con cháu… Giọng văn chân chất và có phần hơi yếm thế rụt rè khi tự
nhận về mình cái nhìn của người nhiều hoài niệm tiếc nuối luôn ám ảnh tuổi già
(mà thực tế tuổi này với văn nhân Bình Định lại viết sung nhất). Văn cũng lành
như người, dù đôi khi cũng ưu thời mẫn thế nhưng vẫn cứ kiểu “nghĩ sao nói vậy”,
kiểu góp ý kiến khi họp thôn đội, tổ dân phố. Nghĩa là cứ căn cứ vào kinh nghiệm
sống, hiểu biết xã hội đến đâu thì đề đạt nguyện vọng đến đó. Nó không có cái
quyết liệt sắc sảo như các cây bút chuyên làm báo, mà dẫn ra quốc sách này, nghị
định kia. Đơn cử anh viết về Rừng Cấm ở vùng quê Thanh Lương, Ân Tín của mình:
bắt đầu bằng những hồi ức tuổi thơ với lời dặn của má “Rừng Cấm có nhiều ma lắm” để càng thôi thúc trí tò mò trẻ con muốn
khám phá, phải nhận những trận đòn của ba; rồi khi đi dạy cho con em đồng bào H’rê
ở An Lão mới biết được cảm giác ở rừng thật sự như thế nào; đến khi quay về bỗng
ngẩn ngơ vì Rừng Cấm đã mất, thay vào đó là nhà cửa khang trang. Để rồi từ cảm
giác “Một phần quá khứ, một phần tuổi thơ
của tôi đã mất đi cùng Rừng Cấm”, anh mở rộng từ nhận thức của một người đọc
báo để than thở: “Tôi lại nlan man từ khu
Rừng Cấm của tuổi thơ ở quê nhà đến những cánh rừng đại ngàn trên khắp đất nước.
Và tôi giật mình nghĩ rằng, có lẽ nào dân làng tôi đã xóa sổ khu Rừng Cấm còn cả
dân tộc ta đang từng bước xóa sổ rừng mà không tính đến chức năng của tự nhiên
bị ảnh hưởng? Nỗi nhớ khu Rừng Cấm luôn canh cánh, nhất là những ngày buồn, nó
càng cồn cào; thôi thúc bước chân tôi đến với rừng. Đôi khi tôi vào rừng chẳng
vì mục đich nào, chỉ đơn giản là muốn giao hòa và tan loãng vào thiên nhiên, để
tâm hồn mình được nương tựa trong không gian của rừng chở che, ôm ấp” (Rừng chưa đóng cửa). Rõ ràng văn có
tình nhưng chưa đủ độ sâu; hiểu rừng, yêu rừng, gắn bó với rừng như vậy không
thấm bằng người bạn Nguyễn Trí của anh – lâm tặc hoàn lương chính hiệu. Hay từ
góc nhìn tản văn, đọc thử Hồn rừng của
Lê Hoài Lương, giọng văn vừa quyết liệt, đã và thấm thía sâu sắc: “Không phải đơn giản và sâu xa “ăn rừng để rồi
rừng ăn lại” theo sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Cần lắm những nhà hoạch định,
nhà đầu tư có tâm, có tầm. Để vẻ đẹp giàu tương lai một vùng đất không có bộ mặt
vênh váo, phô diễn như những trọc phú học làm sang, mà là sự phồn thịnh nhân bản,
nơi con người biết hàm ơn tự nhiên như bản năng sinh tồn xửa xưa”.
Nhưng đến tập tản văn Nỗi nhớ là có thật mới in đầu năm 2022 này, Ngô Văn Cư đã có những
bước lột xác trong giọng điệu, cảm nhân. Chất liệu sống dày thêm, giọng điệu
linh hoạt và thoát khỏi những tư biện cảm tính và lối văn học trò của tập sách
trước đó, đề tài phong phú hơn và nâng tầm cho tập sách. Quãng thời gian đại
dịch 2019 – 2022 với anh lại là dịp để “sống chậm”, viết chắc tay hơn. Những
trang viết vẫn bồi hồi những kỷ niệm yêu thương, những hình ảnh đẹp, những ký
ức sống động… nhưng đã thêm vào đó là
những suy ngẫm về các giá trị xưa và nay, cũ và mới, nhất thời và bền vững một
cách già dặn. Suy ngẫm về thời gian đời người cũng nặng ký hơn, không bảng
lảng vu vơ buồn như trước. Giữa những ngày nặng trĩu buồn lo, ám ảnh vì hậu quả
tàn phá khủng khiếp của con Covid-19 vô hình mà độc ác, Ngô Văn cư lại có thể
viết về một loạt những mùa, những tháng, những năm đáng sống, đáng yêu, đáng
trân trọng, như một vắc-xin tinh thần lạc quan chống chọi và vượt lên hoàn cảnh
bị cách ly, giản cách bó chân bó cẳng nhiều ngày. Điểm nhanh từ tên gọi một số
bài tong tập: Một mùa vui nữa lại về,
Mưa Xuân, Thương nhớ tháng Giêng, Mùa vui ấm áp, Tháng sáu mưa về, Chiều nhung
nhớ, Lặng lẽ thu sang… Vẫn còn đầy ắp bao hình ảnh những không gian của quê
nhà, tuổi thơ, gia đình, học đường: Tết
và bánh tét, Chuồn chuồn có cánh thì bay, Một thoáng ở sân trường xưa, Có một
loài hoa biết xấu hổ, Những mùa gặt, Mong lụt!, Chiếc lá thuộc bài, Đôi đũa
bếp, Nhớ hoài bát nước chè tươi, Vẳng nghe chim vịt kêu chiều… Vẫn một Ngô Văn Cư hồn hậu, nhưng đằm thắm
hơn, chỉn chu hơn trong cách viết, nhiều chất thơ hơn: “Chiều. Thời gian như ngưng
đọng. Niềm quê chợt sống dậy trong tâm thức của những con người khi vẫn đang
sống trên không gian quê. Đó là lúc tuổi thơ đến với ta với bao nhung nhớ diệu
kỳ. Ta gom góp nhớ nhung lại và gọi đó là ngày cũ. Ngày cũ thì bao giờ cũng chỉ
có niềm yêu. Cho dù đó là những ngày khắc nghiệt nhất. Cha đi làm đồng đội mưa,
đội cả sấm chớp khi cơn mưa chợt đến để về nhà. Mẹ đã hái sẵn nồi lá xông cho
cha khỏi cảm lạnh. Những đứa con hồn nhiên tíu tít để được cha cho con cua, con
giếc mừng nước nhảy lên bờ ruộng mà cha bắt được. Con trâu đã nằm yên trong
chuồng bình thản nhai cỏ như bỏ ngoài tai bao chuyện thế sự. Và cánh diều cũng
đã chịu nằm yên sau những lần nhởn nhơ cùng mây gió mang niềm vui cho bầu trời
và những tâm hồn thơ trẻ.” (Chiều
nhung nhớ). Hoặc cái cách
anh viết về lũ lụt cũng chạm được vào nỗi niềm của những người nông dân, khắc
họa đầy đủ cảm xúc “nhọc nhằn mùa lũ” nhưng
vẫn “mong lụt”: “Năm nay lại không có lụt nữa rồi! Không
lụt cũng có nhiều lo lắng! Bọn chuột không bị chết trong lụt tiếp tục sinh sôi
nảy nở sẽ phá hoại mùa màng; đất đai thiếu phù sa, ngày càng bạc màu, phân
chuồng lại thiếu; dùng phân hóa học nhiều sẽ có hại cho đất... Biết bao điều lo
lắng còn trong cuộc sống người dân quê tôi. Các hồ chứa nước khiến công việc
đồng áng thuận lợi hơn, nhưng trên thượng nguồn mưa lớn, hồ quá tải phải xả
nước; thì phía hạ du thiệt hại khó lường. Nước thiên nhiên từ trời đổ xuống,
nước con người tích trữ từ hồ xả ra khiến nhiều người trở tay không kịp. Đã có
một mùa lụt như thế rồi! Thiên tai cùng nhân tai đổ xuống số phận con người!” (Mong lụt).
Ngô Văn Cư đã và đang hoàn thiện dần để định hình lối
viết tản văn như kể chuyện, trau chuốt hơn cảm xúc và lắng đọng hơn chuyện nhân
tình, bớt bi quan hoài niệm mà bình thản, lạc quan hơn trước biến động cuộc
đời.
(Bài của Ths TRẦN HÀ NAM in trong TỌA ĐÀM 10 NĂM VĂN HỌC BÌNH ĐỊNH (2011-2021) – TIẾP NỐI VÀ HY VỌNG)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét