(Về một
nhân vật có tên trong Văn Chỉ Hoài Ân)
Sinh
thời, ba tôi thường kể lại cho con cháu nghe những câu chuyện có liên quan đến
những nhà khoa bảng, những gương học tốt để khuyên dạy con cháu… Có một câu
chuyện liên quan đến một vị đỗ Thủ khoa Cử nhân khi còn rất trẻ. Đó là ông Lê
Truân (còn gọi là Lê Chân); quê ở thôn Thanh Lương, ÂnTín, Hoài Ân, Bình Định;
đỗ Thủ Khoa Cử nhân khoa thi Thành Thái thứ 18 (1906) khi ông mới 23 tuổi.
Số
là, theo quy định thi Hương có 4 kỳ:
Kỳ
1: thi kinh nghĩa, thư nghĩa.
Kỳ
2: thi chiếu, chế, biểu.
Kỳ
3: thi thơ, phú.
Kỳ
4: thi văn sách.
Thi
qua cả 4 kỳ thì đỗ Cử nhân, Người đỗ đầu gọi là Giải Nguyên. Những người đỗ Cử
Nhân được bổ dụng làm quan ở cấp tỉnh, cấp trung ương hoặc được đi làm quan các
huyện, dần dần mới lên chức vụ cao hơn. Nhưng muốn dự thi Hương phải qua hai
điều kiện gọi là Khảo Hạch.
1,
Phải có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch, được xã trưởng và quan địa phương
xác nhận.
2.
Phải kiểm tra trình độ học lực lúc đầu nhưng không tính vào nội dung thi Hương
4 kỳ trên.
Do
có quy định như thế nên trước khi đi thi, Lê Truân phải đến gặp các quan địa
phương để xin xác nhận. Khi nhìn thấy một cậu còn nhỏ tuồi, vóc dáng nhỏ con,
khép nép gữa đình làng Thanh Lương (một cái đình lớn thuộc Tổng Quy Hóa, nay là
thôn Thanh Lương, xã Ân Tín, huyện Hoài Ân); các vị chức sắc có vẻ xem thường,
muốn thử tài. Có người đề nghị là Lê Truân phải đối được câu đối do các cụ ra
mới đóng triện cho đi thi, còn không, thì phải về nhà học thêm. Vế ra như sau:
-Ngô
văn thiên tải giáp khoa, thanh thủy trường giang trường đạo mạch.
Không
cần suy nghĩ lâu, Lê Truân đã đối lại:
-Thánh
tự nhất tâm chi húy, lương ba tự cổ tự thiên kim.
(Theo
lời giảng của ba tôi, có nghĩa: -Tôi nghe nghìn năm mới có được một khoa (tiến sĩ), mà năm này qua năm khác nước trong xanh nơi sông lớn (cứ) chảy một đường dài; -Văn hay đến tột
bực (thì tôi) một lòng kiêng sợ, nhưng con sóng tốt đẹp tự
ngàn xưa vẫn gợn (trên dòng nước xanh kia)
như được dát vàng)
Cái
hay của câu đối là con sóng đẹp của
vế đối đã vượt trên dòng nước trong xanh của vế ra; và nhất là
ghép chữ thanh ở vế ra và chữ lương
ở vế đối được chữ Thanh
Lương là địa danh của đình làng Thanh Lương.
Dĩ
nhiên với câu đối trên các vị đã vui mừng tiễn Lê Truân đi thi và quả nhiên, khoa thi Thành Thái thứ 18 (1906), tại trường
thi Bình Định, ông đã đỗ Thủ khoa, lúc mới 23 tuổi.
Một
giai thoại nữa không thể không kể ra đây, là khi Thủ Khoa Lê Truân vinh danh về
quê, dân làng Tổng Quy Hóa đem võng đến tận Hoài Nhơn để đón nhưng vị Thủ khoa
thấy mình còn quá nhỏ tuổi nên không dám ngồi võng mà cùng dân đi bộ về. Khi
trở lại đền Thanh Lương báo công, lúc đang hành lễ thì cây xà của đình làng
bỗng gãy đổ. Mọi người cho rằng đây là điềm không tốt…!
Quả
nhiên, sau đó chẳng bao lâu, ông mất, cuộc đời ngắn ngủi, chưa kịp thi thố tài
năng… nhưng trong lòng người dân Hoài Ân vẫn luôn nhớ đến ông là một nhà khoa
bảng làm rạng rỡ cho quê hương Hoài Ân, là tấm gương cho con cháu học tập.
Ngô Văn Cư